Bản Chất Của Pháp Luật Được Phản Ánh Qua Mấy Thuộc Tính Cơ Bản

Bản Chất Của Pháp Luật Được Phản Ánh Qua Mấy Thuộc Tính Cơ Bản

Thuộc tính là những dấu hiệu đặc trưng riêng có của sự vật, hiện tượng. Nhà nước và pháp luật tuy có mối quan hệ biện chứng, khách quan song mỗi hiện tượng xã hội này cũng có những thuộc tính đặc trưng riêng của mình bởi đây là hai hiện tượng xã hội có đời sống riêng, có tính độc lập tương đối.

Thuộc tính là những dấu hiệu đặc trưng riêng có của sự vật, hiện tượng. Nhà nước và pháp luật tuy có mối quan hệ biện chứng, khách quan song mỗi hiện tượng xã hội này cũng có những thuộc tính đặc trưng riêng của mình bởi đây là hai hiện tượng xã hội có đời sống riêng, có tính độc lập tương đối.

Tính xã hội của pháp luật:

Pháp luật do nhà nước, đại diện chính thức của toàn xã hội ban hành nên nó còn mang tính chất xã hội. Nghĩa là, ở mức độ ít hay nhiều (tùy thuộc vào hoàn cảnh trong mỗi giai đoạn cụ thể), pháp luật còn thể hiện ý chí và lợi ích của các giai tầng khác trong xã hội. Ví dụ: Pháp luật tư sản Ơ giai đoạn đầu, sau khi cách mạng tư sản thắng lợi, bên cạnh việc thể hiện ý chí của giai cấp tư sản còn thể hiện nguyện vọng dân chủ và lợi ích của nhiều tầng lớp khác trong xã hội. Trong quá trình phát triển tiếp theo, tùy theo tình hình cụ thể, giai cấp tư sản đã điều chỉnh mức độ thể hiện đó theo ý chí của mình để pháp luật có thể “thích ứng” với điều kiện và bối cảnh xã hội cụ thể. Đối với pháp luật xã hội chủ nghĩa cũng vậy, bên cạnh việc pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi thời kỳ (mỗi giai đoạn nhất định của quá trình phát triển), cũng phải tính đến ý chí và lợi ích của các tầng lớp khác.

Như vậy, pháp luật là một hiện tượng vừa mang tính giai cấp lại vừa thể hiện tính xã hội. Hai thuộc tính này có mối liên hệ mật thiết với nhau. Xét theo quan điểm hệ thống, không có pháp luật chỉ thể hiện duy nhất tính giai cấp; ngược lại, cũng không có pháp luật chỉ thể hiện tính xã hội.

Tuy nhiên mức độ đậm, nhạt của hai tính chất đó của pháp luật rất khác nhau và thường hay biến đổi tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, đạo đức, quan điểm, đường lối và các trào lưu chính trị xã hội trong mỗi nước, ở một thời kỳ lịch sử nhất định.

Từ sự phân tích trên có thể định nghĩa pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể.hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tô điều chỉnh các quan hệ xã hội. Để giải thích rõ bản chất của pháp luật còn cần thiết phải phân tích các mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế, chính trị. đạo đức và nhà nước.

Tính xã hội của pháp luật:

Phương diện thứ hai trong bản chất của pháp luật đó là phương diện xã hội. Điều đó có nghĩa là, pháp luật vừa là sự thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị xã hội, vừa là công cụ ghi nhận, bảo vệ lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp xã hội khác vì mục đích ổn định và phát triển xã hội theo đường lối của giai cấp thống trị. Tính xã hội là một thuộc tính khách quan, tất yếu và phổ biến của mọi nhà nước và pháp luật. Nếu không quan tâm đúng mức đến tính xã hội trong hoạt động của nhà nước và trong hệ thống pháp luật sẽ dẫn đến nhiều ảnh hưởng tiêu cực dưới những mức độ, hình thức nhất định đối với quá trình quản lý xã hội của các nhà nước.

Xu hướng dân chủ hóa, những đòi hỏi về tự do, công bằng, hài hòa lợi ích luôn là động lực thúc đẩy tiến bộ xã hội và luôn đặt ra cho nhà lập pháp phải quan tâm. Một hệ thống pháp luật tốt, hiệu quả phụ thuộc phần lớn vào việc giải quyết hài hòa một cách tối ưu nhất lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng, xã hội. Các nhà nước luôn luôn phải chịu những áp lực xã hội trong việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới hay hủy bỏ các văn bản, các quy định pháp luật cho phù hợp. Nhất là trong xã hội hiện đại, ngày càng nẩy sinh và gia tăng các vấn đề xã hội phức tạp luôn đặt lên vai các nhà nước phải xem xét và giải quyết.

Mức độ thể hiện và thực hiện tính xã hội trong các kiểu pháp luật, trong một hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia vào các giai đoạn lịch sử khác nhau cũng có sự khác nhau. Điều đó phụ thuộc vào hàng loạt những yếu tố khách quan và chủ quan như: điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, truyền thống đạo đức, tập quán; tương quan lực lượng giai cấp, xã hội, tôn giáo, dân tộc; xu thế phát triển quốc gia và quốc tế, các yếu tố chủ quan khác…Chẳng hạn, xây dựng nhà nước pháp quyền, dân chủ hóa mọi lĩnh vực quan hệ xã hội đòi hỏi những cuộc cải cách lớn về pháp luật, đặc biệt là về tính công khai, minh bạch, sự ghi nhận và bảo đảm, bảo vệ các quyền con người.

Ví dụ, pháp luật của các nhà nước phong kiến trước đây chủ yếu là bảo vệ lợi ích của nhà nước và giai cấp địa chủ, đi ngược lại lợi ích của người lao động. Bên cạnh đó, pháp luật phong kiến còn có những quy định tuy không nhiều liên quan đến quyền lợi của người nông dân, các đối tượng yếu thế khác trong xã hội. Điển hình nhất là Bộ Luật Hồng Đức của nhà Lê. Bản chất của Quốc triều hình luật được biểu hiện ở tính giai cấp và tính xã hội, bảo vệ quyền lực thống trị của giai cấp phong kiến, trật tự xã hội phong kiến; đồng thời ghi nhận và bảo vệ quyền lợi của giai cấp nông dân và những người lao động khác, của phụ nữ, trẻ em, người già, người tàn tật.

Cũng như đạo đức, pháp luật có vai trò, giá trị xã hội to lớn ở tất cả các giai đoạn phát triển của nhân loại nhưng trên những mức độ nhất định. Chính cuộc sống con người, các mối quan hệ xã hội mà họ tham gia cần đến sự ổn định, trật tự được xác lập và đảm bảo bằng một hệ thống các loại quy tắc xã hội như đạo đức, tập quán, pháp luật v.v… Các quy phạm pháp luật là kết quả của sự tuyển chọn lâu dài trong thực tiễn xã hội, bản thân các quy phạm pháp luật cũng mang tính quy luật. Những cách xử sự hợp lý, khách quan được trải nghiệm, kiểm nghiệm trong cuộc sống, chuyển giao qua nhiều thế hệ, rất nhiều trong số đó có cội rễ từ trong xã hội tiền giai cấp, được nhà nước “tuyển chọn”, đưa thêm các quan điểm, lợi ích của mình và thông qua những thủ tục, hình thức pháp lý nhất định “ nâng lên” thành luật pháp.

Với tư cách là các quy tắc hành vi, pháp luật vừa có vai trò hướng dẫn, vừa có vai trò đánh giá, kiểm tra, kiểm nghiệm các quá trình, các hiện tượng xã hội. Đồng thời, pháp luật còn là công cụ ghi nhận các quá trình xã hội, nhận thức xã hội, định hướng các hoạt động xã hội theo những tiêu chí, mục đích nhất định. Nhận thức đúng vai trò, giá trị xã hội của pháp luật. Các Mác đã viết: “pháp luật phải lấy xã hội làm cơ sở, pháp luật phải là sự biểu hiện của lợi ích và nhu cầu chung của xã hội” và, “chừng nào bộ luật không còn thích hợp với xã hội nữa thì nó sẽ biến thành mớ giấy lộn”. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội mang tính chất điển hình và phổ biến. Kỹ thuật pháp lý trên cơ sở nhận thức khoa học các quan hệ xã hội là phải xử lý đúng đắn, hợp lý giữa tính khái quát, mô hình hóa với tính cụ thể trong các văn bản pháp luật để dễ hiểu, dễ vận dụng vào cuộc sống. Thực trạng hiện nay của chúng ta là có quá nhiều văn bản hướng dẫn thi hành văn bản luật. Chủ trương chung là phải khắc phục tình trạng này, giảm thiểu số lượng các loại văn bản hướng dẫn thi hành các văn bản pháp luật. Muốn vậy, yêu cầu đặt ra là cần hoàn thiện các văn bản luật, luật phải phổ thông, dễ hiểu, dễ vận dụng, phù hợp cuộc sống.

Pháp luật là hiện tượng văn hóa, không chỉ của một quốc gia, dân tộc mà của nhiều nền văn hóa thế giới. Những quan hệ trong lĩnh vực tổ chức nhà nước, dân sự, hôn nhân, gia đình, thương mại v. v… luôn hiện hữu những nét tương đồng của nhiều nền văn hóa. Do vậy, để có cái nhìn bao quát, toàn diện hơn về pháp luật, cần thiết phải đề cập đến các đặc điểm khác nữa của pháp luật như tính dân tộc, tính mở, tính nhân loại bên cạnh tính giai cấp, tính xã hội và giá trị xã hội của pháp luật. Một hệ thống pháp luật tốt, được người dân chấp nhận phải thể hiện các yếu tố, tinh thần dân tộc, truyền thống văn hóa, đạo đức, tập quán. Đồng thời pháp luật quốc gia phải là hệ thống pháp luật mở, tiếp nhận với tinh thần và khả năng chọn lọc những thành tựu của nền văn hóa pháp lý nhân loại, nhất là trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế. Sự xích lại gần nhau của các nền văn hóa, trong đó có văn hóa pháp luật đã và đang là xu thế tất yếu của thế giới hiện đại. Phải thay đổi để tồn tại trong một môi trường quốc tế hợp tác bình đẳng, cùng có lợi là con đường đi tất yếu của mọi quốc gia, dân tộc.